Đầu tiên, tôi xin bày tỏ sự nhất trí cao với Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XVI trình bày trước Đại hội. Qua thực tiễn công tác và những kết quả đạt được của ngành giáo dục đào tạo trong nhiệm kỳ vừa qua, tôi xin tham luận về vấn đề “Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong giai đoạn mới”.
Qua 7 năm thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW của BCH TƯ khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đặc biệt trong 5 năm của nhiệm kỳ 2015- 2020, ngành giáo dục đào tạo tỉnh Hải Dương có nhiều đổi mới và đạt kết quả khá toàn diện, đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đề ra. Một số kết quả tiêu biểu như: Mạng lưới giáo dục mầm non, phổ thông ngày càng tinh gọn, phù hợp, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 75,37% (tăng 22,6% so với năm 2015), vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, cao hơn tỷ lệ chung của toàn quốc. Tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 96.5% (tăng 5% so với năm 2015). Thực hiện tốt việc xét tuyển, thi tuyển bổ sung cho ngành gần 8000 thầy cô giáo có chất lượng, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên.
Về chất lượng giáo dục, Hải Dương là tốp đầu cả nước về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ; nhiều tiêu chí về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non đạt cao, vượt trội so với toàn quốc; chất lượng giáo dục toàn diện có nhiều tiến bộ, thành tích học sinh giỏi quốc gia trong số các tỉnh dẫn đầu cả nước. Từ năm 2015 đến năm 2020, có 431 học sinh đạt giải quốc gia và quốc tế (1 giải bạc quốc tế môn Sinh học năm 2018, 15 giải nhất, 104 giải nhì, 145 giải ba, 167 giải khuyến khích). Hoạt động nghiên cứu khoa học, kỹ thuật trong học sinh được chú trọng, phát triển. Trong 5 năm qua, có 12 đề tài đạt giải tại Cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia, trong đó có 3 giải Nhất. Học sinh Hải Dương còn đạt 01 giải Nhất và 01 giải Ba quốc tế trong cuộc thi viết thư quốc tế UPU. Thực hiện sắp xếp, tổ chức hệ thống các cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp một cách hợp lý góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo được cấp chứng chỉ tăng từ 18.8% năm 2015 lên 24% năm 2020.
Những thành tựu và kết quả nói trên, trước hết là nhờ sự quan tâm, chăm lo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của mỗi gia đình và toàn xã hội; sự tận tụy của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; sự ổn định về chính trị xã hội, cùng với những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ của ngành giáo dục đào tạo tỉnh nhà trong nhiệm kỳ vừa qua, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương khóa XVI trình Đại hội lần thứ XVII cũng chỉ rõ những hạn chế của giáo dục đào tạo tỉnh nhà, đó là điều kiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học ở một số trường chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới; chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý còn chưa đồng đều; việc phân luồng học sinh hiệu quả chưa cao.
Trước xu thế hội nhập toàn diện của đất nước với khu vực và quốc tế, trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ khắp nơi trên thế giới, ngành giáo dục đào tạo cả nước nói chung và giáo dục đào tạo tỉnh nhà nói riêng đang đứng trước nhiều thách thức rất lớn. Để ngành giáo dục và đào tạo khắc phục những hạn chế, hoàn thành tốt sứ mệnh trồng người của mình trong bối cảnh mới, điều kiện tiên quyết là ngành phải tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo một cách thực sự hiệu quả.
Với mục tiêu tổng quát là tiếp tục tạo chuyển biến căn bản về chất lượng giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục học sinh phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
Mục tiêu cụ thể: Đối với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1. Từng bước chuẩn hóa hệ thống các trường mầm non.
Đối với giáo dục phổ thông, tập trung triển khai có hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông mới theo đúng lộ trình. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giữ vững và nâng cao chất lượng thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế; nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, pháp luật cho học sinh. Xây dựng và hoàn thiện mạng lưới giáo dục và đào tạo gắn với thực hiện tốt việc xây dựng xã hội học tập.
Để thực hiện tốt các mục tiêu trên, ngành giáo dục đào tạo phấn đấu thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau:
Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, sự quản lý của chính quyền các cấp trong việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao hiệu quả thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW. Đẩy mạnh công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư (khóa XI) “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030”.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện mạng lưới giáo dục và đào tạo theo chủ trương thu gọn các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập, gắn với thực hiện tốt mục tiêu xây dựng xã hội học tập, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Khuyến khích phát triển hệ thống các cơ sở giáo dục ngoài công lập ở những nơi có điều kiện.
Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; tăng cường công tác quản lý và nâng cao đạo đức nhà giáo; rà soát, sắp xếp đội ngũ giáo viên bảo đảm quy định về định mức số lượng, chuẩn giáo viên đối với các cấp học. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục bảo đảm chất lượng, hiệu quả. Xác định rõ trách nhiệm, vai trò người đứng đầu ngành giáo dục, của từng cơ sở giáo dục về chất lượng giáo dục. Thực hiện miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Bốn là, tăng cường cơ sở vật chất bảo đảm thực hiện chương trình giáo dục phổ thông, sách giáo khoa mới; tập trung xây dựng và nâng cao chất lượng trường đạt chuẩn quốc gia; đẩy mạnh xã hội hóa, huy động tổng hợp các nguồn lực đầu tư, chăm lo cho giáo dục và đào tạo. Bảo đảm kinh phí cho các hoạt động giáo dục theo quy định; bố trí đủ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và giáo viên, đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học phục vụ tốt việc triển khai chương trình và sách giáo khoa mới. Quan tâm ưu tiên đầu tư đối với các trường học có nhiều khó khăn. Bảo đảm đủ phòng học cho học sinh được học 2 buổi/ngày.
Năm là, tiếp tục đổi mới công tác quản lý; đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát; ngăn chặn, xử lý nghiêm những tiêu cực trong hoạt động giáo dục, đào tạo. Coi trọng quản lý chất lượng, gắn trách nhiệm quản lý chuyên môn với quản lý nhân sự và quản lý tài chính. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát của cơ quan chức năng với hoạt động giáo dục, đào tạo.
Sáu là, thường xuyên đổi mới công tác thông tin và truyền thông để thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối với quá trình thực hiện đổi mới, phát triển giáo dục, trước hết là việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông.
Công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục thời gian tới chắc chắn còn nhiều những khó khăn, thách thức. Nhưng, chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ tỉnh, sự chăm lo của nhân dân, sự phối hợp, giúp đỡ của các sở, ban, ngành, đoàn thể cùng sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của ngành giáo dục, công cuộc đổi mới nhất định sẽ thành công. Chúng ta sẽ đào tạo ra những thế hệ học sinh có sức khỏe tốt, tâm hồn trong sáng, có kiến thức và năng lực toàn diện, đáp ứng được yêu cầu đổi mới và hội nhập của đất nước.