Trong những năm qua, Chiến lược cải cách tư pháp đã được tiến hành đồng bộ cùng với sự đổi mới mọi mặt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả, chủ trương của Đảng đối với công tác cải cách tư pháp được chỉ rõ trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư bắt đầu từ Đại hội VII của Đảng cho đến nay, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và tiếp theo đó tại Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
Chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính trị đã xác định 8 nhiệm vụ: (1) Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp; (2) Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp; (3) Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp; (4) Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh; (5) Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với cơ quan tư pháp; (6) Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp; (7) Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp; (8) Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp.
Với sự chỉ đạo kiên định, có lộ trình phù hợp, cho đến nay, nhiều chủ trương của Đảng trong Chiến lược cải cách tư pháp đã được thực hiện và thể chế hóa thành những quy định của pháp luật. Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014; Luật Tổ chức các cơ quan điều tra cũng đã được thông qua. Hầu hết các bộ luật về hoạt động tư pháp đều được sửa đổi để hoàn thiện, Quốc hội đã thông qua được các bộ luật quan trọng như Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự thông qua năm 2015, Luật sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật sửa đổi bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, tố tụng hành chính v.v.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy của tỉnh ta đối với công tác cải cách tư pháp được tăng cường, các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Trung ương về cải cách tư pháp trong đó trọng tâm là Nghị quyết 49-NQ/TW, Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết 96/2019/QH14 của Quốc hội được quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ vừa qua, Tỉnh ủy đã ban hành và chỉ đạo triển khai có hiệu quả Kế hoạch số 11-KH/TU về thực hiện chương trình trọng tâm cải cách tư pháp giai đoạn 2016-2021; đã phối hợp với các ngành trung ương trong công tác quy hoạch, bố trí cán bộ chủ chốt ở các cơ quan tư pháp của tỉnh; đồng thời chỉ đạo UBND tỉnh thực hiện nhiều đề án , chương trình về cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh; chỉ đạo cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm hỗ trợ kinh phí cho các cơ quan tư pháp ở địa phương; ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về triển khai thi hành các bộ luật mới liên quan đến lĩnh vực tư pháp trong giai đoạn 2015-2020.
Cùng với sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các ngành tư pháp cũng nỗ lực phấn đấu trên mọi phương diện nên công cuộc cải cách tư pháp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Hoạt động của các cơ quan tư pháp có nhiều đổi mới, bám sát nhiệm vụ trọng tâm về cải cách tư pháp.
Hệ thống Tòa án nhân dân đã được Bộ Chính trị xác định là cơ quan đặc biệt quan trọng trong chiến lược cải cách tư pháp, với phương hướng là “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Bám sát nhiệm vụ mà Bộ Chính trị đã nêu trong chiến lược cải cách tư pháp, trong những năm qua, hệ thống tòa án đã có nhiều thay đổi lớn. Về tổ chức, hệ thống tòa án 3 cấp đã được thực hiện thành hệ thống tòa án 4 cấp gồm: Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện, cùng theo đó thì các chức danh về thẩm phán cũng bao gồm, Thẩm phán TAND Tối cao, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và thẩm phán sơ cấp. Việc xét xử các loại vụ án đặc biệt là án kiện hành chính cũng đã được mở rộng, các quyết định hành chính liên quan đến quyền tự do của con người đều phải được quyết định bởi Tòa án. Tòa Gia đình và người chưa thành niên được thành lập ở hầu hết các tỉnh thành, phòng xử án theo mô hình mới đang được triển khai và hoạt động tốt, phòng xét xử thân thiện với trẻ em, người chưa thành niên được chú trọng. Luật hòa giải đối thoại tại Tòa án đã có hiệu lực và đang được khẩn trương triển khai thực hiện.
Cùng với hệ thống Tòa án cả nước, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương trong những năm qua cũng đã có nhiều bước phát triển lớn mạnh, hầu hết các trụ sở các Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện đều đã được xây dựng, không còn cảnh phải ở nhờ hoặc xử nhờ hội trường như những năm trước đây, cơ sở vật chất được tăng cường, nhiều tòa án cấp huyện đã có xe ô tô chuyên dùng để cho việc xác minh, thu thập chứng cứ, xét xử lưu động. Chất lượng cán bộ Tòa án được nâng cao, số thẩm phán, thư ký có trình độ chuyên môn tiến sỹ, thạc sỹ, trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân tăng so với giai đoạn trước. Kỷ cương, kỷ luật, lề lối làm việc, tác phong công tác được siết chặt. Cơ bản đội ngũ cán bộ Tòa án đáp ứng được nhiệm vụ về cải cách tư pháp.
Với sự đổi mới của cải cách tư pháp nên công tác xét xử đã đạt được nhiều kết quả. Theo báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị thì từ 01/7/2005 đến 30/6/2019, Tòa án hai cấp tỉnh Hải Dương đã giải quyết, xét xử được 59.226/61.634 vụ việc các loại, đạt tỷ lệ 96,2% đây là một tỷ lệ cao so với Tòa án trong toàn quốc. Trong đó án hình sự giải quyết, xét xử được 15.492/15.845 vụ = 97,8%; án dân sự và hôn nhân - gia đình giải quyết, xét xử được 41.854/43.635 vụ việc = 95,9%; án kinh doanh - thương mại, lao động và hành chính giải quyết, xét xử được 1.580/1.808 vụ, việc = 87,4%, áp dụng biện pháp xử lý hành chính 340/346 hồ sơ. Tòa án hai cấp luôn quan tâm và không ngừng nâng cao chất lượng các phiên toà tranh tụng theo tinh thần cải cách tư pháp, trọng tâm là bảo đảm cho bị cáo, luật sư, người bào chữa, các đương sự và những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tại phiên toà. Trong những năm qua đã có 1.585 vụ án có luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích cho các bị cáo, đương sự tại phiên toà; các phán quyết của Toà án hai cấp đã căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng công khai tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện các tài liệu, chứng cứ của vụ án, nên tỷ lệ các vụ án có kháng cáo, bị kháng nghị giảm đáng kể, trong số hơn 15 nghìn vụ án hình sự, không có vụ án nào xét xử oan, đây là một thành công rất lớn của hệ thống Tòa án tỉnh nhà.
Bên cạnh những kết quả đạt được, qua công tác thực tiễn, việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp vẫn còn một số hạn chế sau đây:
- Vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng đối với một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn hạn chế, thiếu đồng bộ, có nơi còn thiếu kiểm tra đôn đốc, sự phối hợp giữa các cấp ủy đảng các cơ quan tư pháp với nhau và với cấp ủy địa phương chưa thực sự chặt chẽ, nhận thức của hệ thống chính trị đối với cải cách tư pháp có chỗ còn yếu dẫn đến sự phối hợp trong hoạt động tư pháp chưa đạt hiệu quả cao (ví dụ các Hội đồng định giá trong hoạt động tố tụng rất chậm, việc triệu tập các cơ quan công quyền đến tòa còn khó khăn...).
- Hệ thống pháp luật về hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, tố tụng tư pháp và tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp tuy đã được thông qua nhưng còn thiếu đồng bộ, chậm được giải thích hướng dẫn thực hiện. Thực hiện chủ trương tăng cường tranh tụng tại phiên tòa trong hoạt động tố tụng nhưng thời gian qua việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật làm rõ cách thức, nguyên tắc, trình tự, thủ tục, nội dung và thẩm quyền của mỗi chủ thể trong hoạt động tranh tụng chưa được rõ ràng.
- Chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội; tiến độ giải quyết một số loại vụ án vẫn còn thấp, vẫn còn án tồn đọng, kéo dài; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án còn có việc chưa thực sự minh bạch đã làm cho một bộ phận nhân dân chưa thực sự tin tưởng vào chất lượng của hoạt động tư pháp.
- Cơ sở vật chất đầu tư cho các ngành tư pháp đặc biệt là Tòa án còn thấp, chưa đảm bảo theo yêu cầu của cải cách tư pháp, phòng xét xử theo mô hình mới quá nhỏ không không còn chỗ cho người dân đến dự phiên tòa. Cơ sở làm việc cho Tòa gia đình và người chưa thành niên chưa được chú trọng, chưa có phòng xử án thân thiện khi có trẻ em và người chưa thành niên tham gia tố tụng. Chế độ đãi ngộ quá thấp đối với Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử (93.000đ/người/ngày xét xử, trong khi Luật sư thù lao rất cao). Việc đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan tư pháp còn chậm; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan tư pháp còn thấp so với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
Từ những kết quả và hạn chế nêu trên, với các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong việc thực hiện các mục tiêu chung; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tôi có một số kiến nghị và đề xuất sau đây:
Đề nghị Tỉnh ủy tiếp tục ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện chiến lược cải cách tư pháp trong toàn tỉnh một cách đồng bộ, thống nhất cùng với các chương trình thực hiện các nghị quyết, đề án về xây dựng kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh, tạo sự nhận thức thống nhất trong toàn hệ thống chính trị của tỉnh nhà. Ngay sau Đại hội, cần kiện toàn Ban chỉ đạo cải cách tư pháp để Ban chỉ đạo đi vào làm việc. Chỉ đạo một số đơn vị cấp huyện ủy thành lập ban chỉ đạo cải cách tư pháp hoặc phân công đồng chí thường trực phụ trách công tác chỉ đạo cải cách tư pháp, đảm bảo hoạt động cải cách tư pháp có sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy đảng các cấp.
Tăng cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong các cơ quan hoạt động tư pháp; tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy nhằm đáp ứng tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới và công tác cải cách tư pháp; thực hiện tốt việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý và luân chuyển cán bộ; chăm lo rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chức về phẩm chất đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân. Đẩy mạnh chống tiêu cực, tham nhũng trong nội bộ; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm những cán bộ, công chức vi phạm kỷ luật và pháp luật.
Đề nghị Tỉnh ủy, UBND xây dựng chính sách hỗ trợ cơ sở vật chất đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương, đặc biệt là hỗ trợ những hoạt động mà hiện nay ngân sách các ngành trung ương chưa đáp ứng đủ điều kiện cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Ví dụ hệ thống ghi hình khi hỏi cung, lấy lời khai, hệ thống truyền hình trong các phòng xét xử, hệ thống buồng tạm giam, tạm giữ, hệ thống phòng lấy lời khai, đối thoại, hòa giải .v.v. đồng thời có chính sách hỗ trợ riêng của tỉnh đối với công chức hoạt động tư pháp, đặc biệt là đội ngũ Hội thẩm Tòa án các cấp.
Trên đây là một số ý kiến tham luận với chủ đề xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược cải cách tư pháp trong giai đoạn mới cuối cùng xin kính chúc các vị đại biểu mạnh khỏe, hạnh phúc, chúc Đại hội của chúng ta thành công tốt đẹp, xin trân trọng cám ơn./.